NHÂN VĂN-TRÍ TUỆ-HÀI HƯỚC

Chủ Nhật, 30 tháng 6, 2013

58. CHU VIỆT CƯỜNG

CHÌM NỔI CUỘC SỐNG TUỔI THƠ TÔI


                                                                         Chu Việt Cường

                                                                            (Đại tá.GS.TSKH)
Ông nội tôi dạy học ở Bần Yên Nhân (quê bà nội tôi), người ta gọi ông là cụ “Đồ Bần”. Bố tôi và bác ba tôi vì thế có vốn chữ nho và ra Hà Nội mở các cửa hàng câu đối và trướng. Bố tôi mở cửa hàng ở số 11 Hàng Giấy lấy hiệu là “Tùng Lâm”. Bác tôi mở cửa hàng ở số 2 Đồng Xuân lấy hiệu là “Tiến Cảnh”. Với những biển hiệu ngụy trang ấy bố và bác tôi kết hợp hoạt động cách mạng. Nhà tôi và nhà và bác  đều là cơ sở bí mật của các  đồng chí lãnh đạo của Đảng như: Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Trần Huy Liệu, Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Văn Cừ (tức Phùng Lé), Đào Duy Kỳ, Khuất Duy Tiến, Văn Tiến Dũng... Có thời gian vợ con bác Trần Huy Liệu ở nhà tôi. Quan hệ của bố mẹ tôi với các bác lãnh đạo Đảng: Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Trần Huy Liệu… rất thân thiết.

Hiệu Tùng Lâm và Tiến Cảnh là những cơ sở nổi tiếng ở Hà Nội, những ai hoạt động ở Hà Nội thời kỳ 1930 – 1945 đều biết tiếng hai hiệu này. Về sau, năm 2005 nhà số 11 Hàng Giấy được gắn biển di tích lịch sử cách mạng: “Hiệu câu đối và trướng Tùng Lâm là cơ sở hoạt động bí mật của TƯ ĐCSVN thời kỳ 1930 – 1945. Nhiều đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng đã ở và làm việc tại đây”.
Toàn quốc kháng chiến, bố tôi ở lại bảo vệ thủ đô một thời gian ngắn. Rồi bố tôi đưa gia đình tản cư về quê ở Vĩnh Khúc (Văn Giang, Hưng Yên), sau đi lên Tuyên Quang. Mẹ tôi bị máy bay giặc Pháp giết hại ngày 2-4-1947 tại thị xã Tuyên Quang. Hôm đó mẹ tôi, cô Tốn (vợ bác Trí Uẩn, mẹ của bạn Chiến Thắng - lớp 5B Quế Lâm) và bác gái Tống Phúc Chiểu cùng tránh bom trong một ngôi nhà, nên cùng bị giết bởi một quả bom do máy bay Pháp thả xuống. Hôm đó có khoảng 300 người bị giết hại tại thị xã Tuyên Quang. Tang lễ do cơ quan Chính phủ tổ chức. Mộ của ba bà chôn cạnh nhau, có đánh số. Chiến Thắng khi đó lớn hơn tôi nên được cô ruột chỉ dẫn số hiệu mộ của mẹ Thắng, mẹ tôi và của bác Chiểu gái. Cho nên sau này (năm 1998) Chiến Thắng hướng dẫn tôi và Tống Phúc Chính lên Tuyên Quang nhận lại mộ của mẹ đẻ. Bác Tống Phúc Chiểu trước Cách mạng Tháng 8 làm quản trị trưởng tờ báo “Tin tức” (ban biên tập có bác Trường Chinh, Trần Huy Liệu…) trụ sở ở Phùng Hưng Hà Nội. Kháng chiến toàn quốc, bác Chiểu đi Nam chiến đấu gửi lại hai anh em Tống Phúc Chính và Tống Phúc Hiệu để bác Trường Chinh nuôi. Bác Tống Phúc Chiểu sau này cũng hy sinh trong kháng chiến chống Pháp.
Khi mẹ tôi hy sinh (năm 1947) tôi mới 5 tuổi, còn em gái tôi (Chu Hạnh Phúc) mới 1 tuổi. Gia đình tôi có chị tên là Nghĩa đi theo giúp việc nhà, đặc biệt là chăm sóc, nuôi nấng em gái tôi. Sau khi mẹ tôi hy sinh, bố tôi từ Phú Thọ sang Tuyên Quang đưa hai anh em tôi đi tản cư khắp nơi như Hiệp Hòa Bắc Giang, Phú Bình Thái Nguyên, rồi cuối cùng về thị xã Thái Nguyên. Sau đó, bố tôi đi công tác bị nhiễm bệnh hiểm nghèo và qua đời năm 1950, khi ấy tôi 8 tuổi, em gái tôi 4 tuổi. Bác Tiến Cảnh tôi (bác trai) lúc đó lên Bắc Cạn công tác ở cơ quan với bác Trường Chinh. Năm 1947 giặc Pháp nhảy dù Bắc Cạn. Hầm trú ẩn của bác tôi bị lộ, giặc Pháp bắt được bác tôi, rồi xử bắn bác cùng với hai đồng chí cảnh vệ. (Năm 2010 mới tìm thấy mộ của ba người). Vì thế sau này anh Chu Mạnh Thọ con bác Tiến Cảnh cũng được bác Trường Chinh có ý kiến cho đi học trường Quế Lâm (cùng lớp với Trần Đình Hoan…).
Sau khi được tin cả cha mẹ tôi mất, bác dâu Tiến Cảnh tôi về Thái Nguyên đón hai anh em tôi về nuôi cùng với hai anh chị con bác, trong đó có anh Chu Mạnh Thọ. Khi tôi về sống với bác dâu tôi thì bác đang làm quản lý cho bếp ăn của cơ quan Hội Liên Hiệp Thanh niên Viêt Nam do ông Nguyễn Chí Thanh làm Chủ tịch. Lương của bác không đủ nuôi 4 anh chị em tôi, nên bác xin ra khỏi cơ quan với ý định sẽ buôn bán để nuôi chúng tôi. Nhưng trong hoàn cảnh rất khó khăn, không có vốn liếng, không có bạn bè buôn bán thì chỉ buôn thúng bán mẹt, làm sao sống nổi? Nhiều lúc bác tôi đi buôn cả tuần, ở nhà không có tiền, không có gạo, bốn anh chị em tôi phải vào rừng hái ổi ăn trừ bữa, nên bị táo bón, phải dùng xà phòng bôi trơn mới đại tiện được. Ít lâu sau, tôi xin bác tôi cho hai anh em tôi đi làm con nuôi một gia đình đồng bào miền núi. Gia đình hai vợ chồng ấy không có con cái, ở nhà sàn. Hàng ngày tôi đi chăn trâu, và gánh nước từ suối lên bằng hai ống bương…
Được tin cha mẹ tôi đã mất, rồi sau này bác dâu tôi cũng mất, nên bác Trần Huy Liệu đến Núi Hồng (Thái Nguyên) đón hai anh em tôi về nuôi. Tôi ở nhà với bác Liệu gái, với chị Trần Nguyệt Hồng (sau này đi học ở Internat Matxcơva) và Trần Thành Công (sau này đi học ở CHDC Đức). Tôi cùng bác Liệu gái và các chị lên đồi cuốc đất trồng sắn. Được mấy tháng thì bác Liệu cử người cần vụ về đón anh em tôi gửi lên trại nhi đồng TƯ ở Khe Khao (gần Đầm Hồng Bản Thi Tuyên Quang giáp Bắc Cạn) thuộc Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam do cô Lê Tụy Phương làm giám đốc trại. Cô Phương là mẹ đẻ của Nguyễn Hoài Niệm (học Trường Quế Lâm cùng lớp với Vũ Cao Phan). Cô Phương và Chú Ngọc (chồng cô Phương) chăm sóc, dạy dỗ anh em tôi như con cái trong nhà, nên cô chú như bố mẹ nuôi của chúng tôi. Khi đưa anh em tôi từ nhà Bác Liệu ở Đại Từ Thái Nguyên lên Khe Khao thì tôi đi bộ, còn anh cần vụ của bác Liệu gánh em tôi trong cái thúng, bên kia quanh gánh là hành lý. Đến Đầm Hồng thì ba anh em đi tàu hỏa của ta chạy đêm từ Đầm Hồng đến Bản Thi, rồi mới đi đường núi lên Khe Khao. Tàu hỏa loại nhỏ, chạy than, chỉ có 2 toa, 1 toa hàng, 1 toa khách chở được chừng 10 người.
Năm 1951, tôi đã 9 tuổi , quá tuổi ở trại nhi đồng rồi. Lúc đó bác Ái là phó chủ tịch hội LHPN VN quyết định chuyển tôi sang Nam Ninh (Trung Quốc) học trường cấp một (bác Ái trước đây cũng hoạt động ở Hà Nội nên rất biết hiệu Tùng Lâm của bố tôi). Tôi được đưa từ Khe Khao lên tập trung ở hang Bắc Sơn (là hang nổi tiếng từ thời du kích chống Nhật). Tôi đến tập trung ở hang Bắc Sơn với anh em Nguyễn Trần Cầu và Nguyễn Trần Kiều (con bác Đỗ, là cán bộ lão thành, trước Cách mạng Tháng 8 cũng hoạt động tại Hà Nội). Nguyễn Trần Kiều sau khi sang Quế Lâm được cử đi học ở Internat Matxcơva.
Năm 1951, khi sang Trung Quốc tôi đến Tâm Hư Nam Ninh học lớp 3 do thầy Tầng dạy, rồi lớp 4 do thầy Nghị dạy. Lúc đó chúng tôi ở trong khu đình của một làng, cạnh cổng ra vào còn có nhà để xác (giữ xác chết nhiều năm). Ở trường cấp I Tâm Hư tôi học cùng lớp với Lân Cường, con bác Nguyễn Lân, với Nguyễn Lưu, con bác Nguyễn Xiển, với Khâm Minh, con bác Võ Thuần Nho. Đến hè hết lớp 4 (đầu năm 1954) chúng tôi được chuyển ra khu nhà hai tầng mới xây của Khu học xá (KHX) Nam Ninh.
Một thời gian sau, tôi và nhiều bạn được chọn lên Quế Lâm học Trường Thiếu nhi Việt Nam. Năm 1954 – 1955 học lớp 5A do thầy Phạm Mạnh Tuấn làm chủ nhiệm. 1955 – 1956 lên lớp 6A, học kỳ I do thầy Nguyễn Văn Nam làm chủ nhiệm, học kỳ II do cô Nguyễn Ngọc Quế làm chủ nhiệm. Lớp 7A (1956 – 1957) do thầy Lý Trần Quý làm chủ nhiệm. Hiện tôi còn giữ lại được cuốn học bạ của 3 năm học trường Quế Lâm, tôi được nhận xét học khá giỏi các môn tự nhiên: Toán, Lý, Hóa… Cuốn học bạ đó là kỷ niệm có một không hai, chỉ riêng tiêu đề của cuốn học bạ cũng là độc đáo:
                                  “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
                                  Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc
                                          Đảng Lao động VN
                              BAN TỔ CHỨC TRUNG ƯƠNG
                                          Trường Thiếu nhi VN
                                                    HỌC BẠ
                                        Học sinh : Chu Việt Cường
                                                Số đăng bộ : 69”
Sau khi học xong cấp II ở Quế Lâm, mùa hè năm ấy tôi cùng các bạn về nghỉ hè ở Hà Nội. Tôi về nhà bác Trần Huy Liệu ở phố Phan Huy Chú. Nghỉ hè xong thì cùng các bạn sang Khu học xá Nam Ninh học học kỳ I lớp 8. Năm đó có một kỷ niệm đáng nhớ là thầy trò KHX Nam Ninh được đón bác Hồ, sau khi Bác đi nghỉ ở Liên Xô về. Khi Bác ra về tất cả học sinh đều túm tụm bám vào xe của Bác. Tôi cũng đến gần và bám vào xe của Bác ra đến tận cổng.
Học hết học kỳ I lớp 8 thì trường cấp III Khu học xá giải thể. Tất cả về nước học cấp III ở các trường trong nước. Tôi về sống với gia đình ông cậu họ ở thành phố Nam Định, học trường cấp III ở đó. Bác Trần Huy Liệu lại xin tiền trợ cấp của tỉnh ủy Nam Định cho tôi ăn học. Mỗi tháng được lĩnh 18 đồng (13 đồng tiền ăn, 5 đồng tiêu vặt). Sau khi học hết lớp 10, thi tốt nghiệp phổ thông tôi được nhận giải thưởng của trường và của Tỉnh Đoàn Nam Định. Sau đó tôi được chọn đi học Nga văn ở trường Bổ túc Ngoại ngữ Gia Lâm (1960 – 1961). Tháng 8-1961 tôi được theo đoàn lưu học sinh đi Liên Xô học đại học. Tôi về Kiev học trường Đại học Xây dựng Kiev. Cùng học một trường với tôi có bạn Ngô Xuân Tuấn (cùng lớp 5A cũ).
Tuy nhiên tôi vẫn có ước mong học các ngành khoa học cơ bản. Nên từ năm thứ 2 tôi còn học lớp toán cơ buổi tối theo chương trình Đại học Tổng hợp Kiev. Và tháng 12-1966 tôi tốt nghiệp ngành Kỹ sư Xây dựng Dân dụng và Công nghiệp của Đại học Xây dựng Kiev. Đồng thời tôi cũng nhận bằng tốt nghiệp ngành Toán cơ của Đại học Tổng hợp.
Tết Dương lịch 1967 đến vào đúng lúc tôi đang đi trên chuyến tàu qua Sibiri lạnh giá của Liên Xô. Về nước năm ấy miền Bắc đang chống trả chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, nên tôi viết đơn xin nhập ngũ.
Vốn có chuyên môn ngành xây dựng nên tôi được điều về binh chủng Công binh, công tác tại phòng Công trình. Sẵn có kiến thức toán cơ nên tôi thực hiện những tính toán phức tạp chống bom đạn, thiết kế những công trình phòng thủ trọng điểm, trong đó có đường hầm máy bay khẩu độ rộng và các công trình bảo vệ Bác Hồ, Trung ương Đảng và Bộ Tổng tư lệnh. Rồi tháng 5-1969 tôi thiết kế lăng kính và bục đặt thi hài Bác Hồ phục vụ tang lễ Bác (tháng 9-1969). Những kết quả công tác trong thời gian tôi làm việc ở phòng công trình Bộ Tư Lệnh (BTL) Công binh được đánh dấu bằng phần thưởng: Tôi và tập thể một số đồng đội ở phòng Công trình BTL Công binh được nhận 2 giải thưởng: Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước về khoa học Công nghệ (năm 2005).
Năm 1970 Cục cán bộ Bộ Quốc phòng (BQP) điều tôi về giảng dạy tại Khoa Công trình trường Đại học Kỹ thuật Quân sự (nay là Học viện Kỹ thuật Quân sự). Tôi được cử đi nghiên cứu sinh phó tiến sĩ (1973 – 1976). Sau khi nhận bằng Phó Tiến sĩ tôi được điều về Trung tâm Toán máy tính của BQP. Rồi tháng 12-1986 tôi được cử đi thực tập cao cấp tại Trường Kỹ sư Hàng không Kiev. Và tháng 1-1990 tôi bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ Khoa học (bậc 2) tại chi nhánh Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô ở thành phố Vladivostok .
Về nước tôi tiếp tục công tác tại cơ sở phía Nam của Trung tâm Máy tính BQP. Và tôi nhận học hàm Phó Giáo sư về cơ học năm 1992.
Năm 2008 tôi về hưu. Tôi vẫn hướng dẫn nghiên cứu sinh (Tiến sĩ) và cao học (Thạc sĩ ) tại Viện Cơ học và Tin học Ứng dụng TP Hồ Chí Minh.

1 nhận xét: