VỚI TRƯỞNG NAM CỦA THI SĨ HOÀNG CẦM
(Sưu tầm trên Blog Nguyễn Trọng Tạo)
(Sưu tầm trên Blog Nguyễn Trọng Tạo)
Tôi trở lại một vùng quê Kinh Bắc xưa… Chợt cồn cào nhớ đến một nhà nghiên cứu
văn hóa quê gốc Song Hồ, Thuận Thành, Bắc Ninh. Đó là anh Hoàng Kỳ. Tôi thuộc
thơ của thi sĩ Hoàng Cầm từ rất nhiều năm trước khi biết đến người con trai đầu
của cụ. Qua nhà thơ Thanh Kim, phóng viên báo Bắc Giang, tôi được gặp anh lần
đầu tại thư viện của thị xã Bắc Giang (tỉnh Hà Bắc cũ). Mới gặp, anh có vẻ lịch
sự xã giao, thậm chí như hơi đề phòng - thói quen hình thành trong một hoàn cảnh
gia đình đầy sóng gió đã ảnh hưởng sâu đậm tới cuộc đời anh… Nhưng dần dà, cái
vỏ ngoài ấy đã biến mất hẳn sau nửa giờ trò chuyện, khi anh hiểu rõ rằng: trước
mặt anh là một “con mọt sách”, đang muốn tìm hiểu về văn hóa vùng Kinh Bắc…
Với tư cách là phó giám đốc thư viện, anh Hoàng Kỳ đã nhiệt tình tìm giúp tôi
những tài liệu cần thiết - đầu tiên là cuốn Địa chí Bắc Giang. Anh không
mệt mỏi giải thích cho tôi vài tồn nghi khoa học - như một nhà nghiên cứu
thứ thiệt, và với nguồn cảm hứng của một nhà thơ về một vùng đất dày đặc trầm
tích văn hóa & lịch sử… Anh mời tôi đến thăm nhà anh, một ngôi nhà nhỏ nằm
trong hẻm dốc ở rìa thị xã. Chị Vân vợ anh, một phụ nữ hiếu khách trong vẻ nhẫn
nhịn lặng lẽ quen thuộc của người Kinh Bắc, chị chào tôi một câu rồi xin phép
quay đi, lúi húi với đàn gà, đàn lợn…
Khi đó, đang thực hiện một bộ phim tài liệu về Học vấn đất Kinh Bắc xưa &
nay, tôi đã trân trọng mời anh cùng tham gia. Anh hồ hởi nhận lời. Thế là, hai
anh em chúng tôi và đồ nghề quay phim trên một chiếc xe máy phân khối lớn đã
rong ruổi qua nhiều vùng quê Kinh Bắc… Chúng tôi đã đi dọc sông Đuống – một chi
lưu quan trọng của sông Cái, và theo dòng sông “Nghiêng nghiêng trong kháng
chiến trường kỳ” đó của thi sĩ Hoàng Cầm để đến với “cái nôi sinh thành dân tộc
Việt Nam” như cố học giả Nguyễn Văn Huyên đã chứng minh trong luận văn tiến sĩ
của mình hơn bảy mươi năm trước, đến với vùng huyền thoại gắn với lai lịch dân
tộc Việt: Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Phật bà Man nương, đến với Luy Lâu -
trung tâm Phật giáo lớn nhất nước ta thời cổ đại… Chúng tôi không chỉ một lần
đứng nhìn bao quát cả một vùng non nước trải rộng đến chân trời -
quê hương của nhiều danh nhân văn hoá kiệt xuất, là vùng học vấn khoa bảng hàng
đầu đất nước, nơi góp phần minh chứng cho chân lý của nhà bác học Lê Quý Đôn -
đốc đồng Kinh Bắc năm 1764: “Phi trí bất hưng” (Không có trí thức thì Quốc gia
không thể hưng thịnh được). Ông nội cụ Lê Quý Đôn là Thượng thư Bộ công, quê
gốc ở huyện Đông Ngàn (huyện Tiên Sơn, Bắc Ninh nay) đã đưa gia đình về lập
nghiệp ở huyện Duyên Hà (nay là Hưng Hà, Thái Bình), ở đó còn tấm bia ghi rõ:
Họ Lê trước đây
Vốn từ Kinh Bắc
Chuyển đến Duyên Hà
Nối đời đại đức.
Kinh Bắc xưa có nhiều dòng họ cha truyền con nối đỗ đạt cao, đặc biệt có tới
102 vị đại khoa làm sứ thần (cả nước có 307 vị). Nhiều vị trở thành các nhà văn
hoá, các tác giả tên tuổi - như Huyền Quang, Hàn Thuyên, Thái Thuận,
Nguyễn Gia Thiều, Phạm Thái, Cao Bá Quát, v.v. Vùng đất này đã từng có nhiều
người thầy dạy dỗ con em dân thường trở thành văn nhân, nhà khoa học nổi tiếng,
và cũng từng có thày dạy vua và thái tử như: Lê Văn Thịnh, Nguyễn Cư Đạo… Hàng
chục tiến sĩ, trạng nguyên người Kinh Bắc đã làm tế tửu Quốc Tử Giám (tương
đương hiệu trưởng trường đại học nay) như Vũ Quốc Nguyên, Nguyễn Thiên Tích,
Nguyễn Nhân Thiếp, Thân Nhân Trung v.v... Hoàng Kỳ đã đưa tôi tìm đến các văn
chỉ & đền thờ họ Phạm, họ Nguyễn ở Kim Đôi có tới 6-7 đời đỗ đại khoa, dòng
họ Nguyễn ở Vân Điềm có 7 đời đỗ tiến sĩ, họ Ngô ở Vọng Nguyệt có 6 đời đỗ tiến
sĩ; rồi tới những làng có 3, 4, 5 đời tiến sĩ: họ Quách ở Phù Khê, họ Nguyễn ở
Tam Sơn, họ Nguyễn ở Đại Bái, họ Nguyễn ở Nghĩa Lập… Đến đâu Hoàng Kỳ cũng có nhiều
bạn bè quý trọng anh, tận tình giúp đỡ nhóm làm phim. Trong những ngày điền dã
quay phim vất vả đó, anh đã chăm chút lo toan cho tôi như đối với một đứa em
trai thân yêu của mình. Có lần, tôi muốn tìm một khung cửi dệt có “con cò mấp
máy suốt năm canh” như nữ sĩ Hồ Xuân Hương miêu tả để quay phim -
khi mà các khung cửi truyền thống đã bị dẹp bỏ, Hoàng Kỳ đã cùng các bạn anh mò
mẫm khắp làng để tìm cho ra một khung cửi có con cò gỗ phủ bụi ở một góc nhà,
động viên gia đình khôi phục lại, lau chùi sạch sẽ, lại có người ngồi dệt; và
con cò gỗ lại “mấp máy” hiển hiện những mảnh đời âm thầm làm lụng của bao người
vợ, người mẹ, người em gái vùng Kinh Bắc cho chồng, cho con, cho anh dùi mài
đèn sách… Trước hàng chục em bé đeo khăn quàng đỏ đến thăm Văn Miếu Bắc Ninh
rậm rịt cỏ dại (lúc đó chưa được xây tường bao quanh và chưa khang trang như
bây giờ), anh đã nhiệt tình giảng giải cho các em (cho cả cụ thủ từ và tôi nữa)
những hiểu biết cặn kẽ của anh về các tấm bia Kim bảng lưu phương, đọc vanh
vách danh sách 10 vị đỗ ở khoa thi Minh kinh bác học đầu tiên ở nước ta mà
người đứng đầu danh sách là thí sinh Lê Văn Thịnh - sau đó là vị thái sư danh
tiếng bị hàm oan suốt 900 năm!…
Một buổi sáng, chúng tôi rời huyện Thuận Thành để sang huyện khác giữa khi các
sân trường đang vắng lặng, chỉ còn văng vẳng tiếng giảng bài, đọc bài từ các
phòng học lộng gió và thơm ngát hương đồng; trong khi đó, các mẹ các chị vẫn
đang cặm cụi trên những mảnh vườn, thửa ruộng, chắt chiu từng nong tằm, hạt
lúa, củ khoai… Những cô bé, cậu bé rời trường học lại
bắt tay phụ giúp cha mẹ chăn trâu, cắt cỏ, bóc sắn, học bài… và
mơ ước tới những chân trời xa. Hàng trăm năm nay, các tiến sĩ, cử
nhân của những vùng quê Kinh Bắc đã lớn lên như thế trong lời ru ngọt ngào,
trong mồ hôi mặn đắng tần tảo nuôi con, nuôi em ăn học… Tâm lý coi trọng học
vấn, coi trọng trí thức, coi trọng nhân tài đã hàng ngày được củng cố, trở nên
bền chắc và cao quý. “Bạc đầy nong không bằng cong chữ” – “Nhân bất học bất tri
lý” (Người mà không học thì không biết được lẽ phải)… Ngay cả khi nền Hán học
chính quy đã bộc lộ những mặt bảo thủ phản động, thì những truyền thống lành
mạnh về giáo dục và học vấn vẫn được nhân dân trân trọng giữ gìn. Thời phong
kiến, Nhà nước chỉ tổ chức chu đáo bậc học và các kỳ thi tuyển cao cấp, còn trên
thực tế, do lòng hiếu học của nhân dân, các bậc sơ học và trung học hầu như do
nhân dân ở các cấp làng xã lo liệu. Truyền thống hiếu học và nền học vấn “khai
tâm” ấy đã đi vào tranh dân gian Đông Hồ với hình tượng “Thầy đồ cóc”, “Tiến sĩ
chuột vinh quy” thấm đượm tâm hồn trào lộng dân gian, đi vào tục thi đọc mục
lục, tục kéo cờ chạy chữ, đi vào thế ứng xử:
“Mồng một thì về quê cha
Mồng hai quê mẹ, mồng ba quê thầy“…
“Mồng một thì về quê cha
Mồng hai quê mẹ, mồng ba quê thầy“…
Trong gần 300 hương ước còn lại của Kinh Bắc xưa, sự học là một trong những
điều khoản được coi trọng hàng đầu. Có một hương ước quy định: “Khi làm sổ dự
toán thu chi của làng nên tùy theo tình hình tài chính mà dự định một số tiền
để trợ cấp tiền giấy bút cho những học trò nhà nghèo mà học hành tấn tới thành
tài”… Theo chân anh Hoàng Kỳ, những địa danh trở thành biểu tượng của lòng hiếu
học cảm động đất Kinh Bắc đã găm vào tâm trí tôi trong nhiều năm tháng dài: Đại
Mão, Mão Điền, Thanh Khương, Song Hồ, Kim Đôi, Vọng Nguyệt, Tam Sơn, v.v.
Tôi học được ở Hoàng Kỳ sự chu đáo tận tụy đối với công việc – nhất là công
việc có liên quan đến tri thức sách vở. Anh tôn trọng sự chính xác của tư liệu,
rất ghét sự đại khái qua loa. Đằng sau dòng chữ nhỏ li ti và chân phương của
anh trên những trang viết là cả một tinh thần lao động say mê, căng thẳng… Anh
cắm cúi đọc và dịch lắm lúc quên cả bữa ăn. Hình như, đến thời kỳ được tiếp xúc
với kho tư liệu sách vở và ngấm “men” của nó, anh đã lao vào cái thế giới mênh
mông vừa kỳ vĩ huyền ảo vừa đẫm lệ máu ấy để bù đắp lại những năm tháng dài sau
khi tốt nghiệp đại học ngoại ngữ ngồi ghế đá chờ việc, không dám gặp gỡ ai để
tránh cái nhìn thương hại cho con của một kẻ từng mắc án “Nhân văn Giai phẩm”
và phải chịu án tù vì họa “văn tự”… Nhưng cũng chính “văn tự” đã cứu sống cho ý
nghĩa cuộc đời Hoàng Kỳ, và anh đã coi tri thức như một thứ Tôn giáo mới! Khi
về Hà Nội làm biên tập viên báo Sức khỏe & Đời sống, anh cũng đem cả cái
vốn đọc vốn học suốt bao năm vùi mình ở thư viện vào các lĩnh vực nâng cao sức
khỏe mọi người… Và anh khảo cứu trong kho thư tịch cổ để rút ra không chỉ bài
học ứng xử cho bản thân, mà còn giúp cho nhiều thế hệ độc giả – trong đó có học
trò của anh là tôi – cái lý do tồn tại để không trở thành “một khối nặng vô ích
của trái đất” – theo cách nói của văn hào Nga N. Gogol… Trong những ngày đi dọc
ngang đất Học vấn Kinh Bắc đó, anh đã kể cho tôi nghe về mấy đề thi Tiến sĩ
thời xưa, như ở khoa thi Giáp Tuất (1694): “Hãy bàn về các bậc hào kiệt” –
nghĩa là bàn về các nhân tài xuất sắc, và ở khoa thi Canh Thìn (1700): “Kế sách
xây dựng một quốc gia bền vững” – (khoa này, cả nước có 19 người đỗ, trong đó
có 3 tiến sĩ người Kinh Bắc). Anh giở sổ tay đọc một đoạn chép về cách dùng
nhân tài trong luận văn Tiến sĩ của Lưỡng quốc Trạng nguyên Nguyễn Trực tại
khoa thi năm Nhâm Tuất (1442, Kinh Bắc đỗ 5 Tiến sĩ trong 33 Tiến sĩ cả nước):
“Tiến cử người quân tử, lui bỏ kẻ tiểu nhân, ấy là bản tâm của bậc Thánh nhân
trị nước. Trị nước lấy nhân tài làm gốc, dùng người lấy chữ tín làm đầu. Bệ hạ
muốn quân tử tiến, tiểu nhân lùi thì không gì bằng gần gũi bề tôi khí tiết, xử
dụng kẻ sĩ chính trực...”
Dường như dưới suối vàng, nhà nghiên cứu văn hóa Hoàng Kỳ vẫn đang cặm cụi viết
những dòng chữ đẹp dành cho cõi đời này: Hào kiệt thì đời nào cũng có, và dù bị
kẻ tiểu nhân, lũ độc ác tìm cách hãm hại tiêu diệt, các bậc nhân tài bao giờ
cũng được lòng dân che chở. Còn những người có trách nhiệm xây dựng một Quốc
gia bền vững nếu không biết trọng thị những bậc nhân tài như thế, nếu không
biết quý trọng những người dân dám xả thân để bảo vệ nhân tài, họa diệt vong
của một Quốc gia ắt đang cận kề…
Anh Hoàng Kỳ ơi! Đã được cùng anh “Cúi lạy Mẹ con trở về Kinh Bắc” năm nào, giờ
đây em xin có một nén nhang thơm tưởng nhớ anh và nhẩm lại vài bài học vỡ lòng
về Tri thức dưới bóng lâu đài Học vấn trên quê hương anh…
---------------------------------------------------------------------------
Nguồn: Blog Nguyễn Trọng Tạo
Posted on 14.05.2012 by nguyentrongtao
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét